mardi 20 décembre 2016

NGƯỜI THƯƠNG BINH DI TẢN

 
 
 
Máu tôi đổ có phải chăng vô ích
phải chăng sầu gửi lại với sử xanh
thân cho dù không nguyên vẹn đã đành
nhưng còn một trái tim dành cho nước
*
Bốn mươi năm buông đời trôi phiền trược
máu trong người luôn chảy ngược thời gian
rất muốn làm lại người lính gian nan
chuyện sống chết như mây ngàn gió bụi
*
Đời người lính lấy chăn rừng gối núi
đêm và ngày nước suối, túi cơm khô
viết thư tình_Ừ thì lấy ba lô
đem C-4 làm củi khô đun nước
*
Đêm canh giặc mắt trừng ra phía trước
hoả châu soi rừng lau mượt chân đồi
chân di hành trong đêm tối sao rơi
chờ rựng sáng là sướng ơi! Nổ súng
*
Tôi đây sao? tóc rơi đời bạc trắng
chân phong trần còn lầm lủi tha phương
ai vẽ lên người di tản rong buồn
cứ chiều xuống nhớ quê hương da diết
 
LanPhi
 


mercredi 14 décembre 2016

HUYẾT LỆ

 
 
 
Mai ta bồng súng đi lên núi
phanh ngực, ta ca ngạo đất trời
rót chung rượu tạ hồn sông núi
chôn súng rồi ngồi khóc khơi khơi
*
Mai mang lựu đạn đi ra biển
kiếm chỗ nào chôn chờ vượt biên
những trái cà na khi linh hiển
nổ banh xác giặc khỏi làm phiền
*
Mai mang xác mẹ vào lò đốt
 đốt cả tâm gan thấm lụy phiền
đứa con của mẹ làm không tốt
đánh mất cơ đồ sông núi thiêng
*
Mai em tiễn chị đi về đất
lấp huyệt nhìn ra bạc cả rừng
vùng kinh tế mới sao hiu hắt
thắp nén nhang lòng buồn rưng rưng
*
Cất một tiếng gầm sa huyết lệ
chí chưa thành mà đời đã sang trang
 
LanPhi


lundi 12 décembre 2016

NGƯỜI ĐI TÌM MỘ

 
 
Tôi đi gõ cửa soi tiền kiếp
hỏi lại người quen những mộ phần
dãy mộ ngày xưa anh chị biết
chỗ nào là nấm mộ tôi không
*
Tôi đi tìm mãi, hồn quanh quẩn
một ngọn cờ thiêng của thuở nào
đá nát, vàng phai, hồn tôi vẫn
tìm lại chiến bào của năm nao
*
Tôi đi gom lại xương đồng đội
có kẽ thây phơi giữa chiến trường
hay đỉnh núi buồn mây phủ lối
hồn còn vướng vất mộng Trường Sơn
*
Tôi đi tìm lại manh áo trận
ướt giọt mưa qua lối chiến bào
nửa mảnh nhung y thời Trung cổ
đấp từng ngôi mộ lạnh xanh xao
*
Bao giờ khắc lại trên bia đá
tên người đồng đội đã hy sinh
uống chung rượu nhạt sầu thiên cổ
bạt độ luân hồi kiếp lai sinh
 
LanPhi
 


lundi 5 décembre 2016

TÓC NHỚ

L’image contient peut-être : une personne ou plus
 
nắng cư xá _em ngồi buồn tóc nhớ
mùi mồ hôi người lính trận cao nguyên
anh sân trường ngày áo trắng trinh nguyên
cầm tay hẹn _mùa chiến chinh chấm dứt
...
TÓC NHỚ.....
*
nắng cư xá _em ngồi buồn tóc nhớ
mùi mồ hôi người lính trận cao nguyên
anh sân trường ngày áo trắng trinh nguyên
cầm tay hẹn _mùa chiến chinh chấm dứt
*
tuổi học trò anh dường như bỏ mặc
khoác lên mình màu áo trận phong sương
hoa phượng rơi _ anh rời bỏ sân trường
em lặng lẽ tiễn người thương ra trận
*
mùa nắng đi _ hay mưa về sân vắng
giọt mưa buồn nghe thê thiết làm sao
anh giờ đây một góc núi nơi nào
hay hố nhỏ nghe mưa xào xạt lá
*
em nhớ anh _ mang nỗi buồn cư xá
gửi tấm lòng về xứ lạ Pleiku
ở nơi anh ngày tháng vẫn sương mù
nhớ anh lắm _ em dâng lòng da diết
*
em dâng Mẹ lời nguyện cầu tha thiết
giữ gìn anh giữa mủi đạn lằn tên
em cũng mong rằng anh sẽ không quên
nơi cư xá _ có người hong tóc nhớ.....
 
LanPhi


dimanche 13 novembre 2016

NÊU TÔI CHẾT ĐI

 
 
Buồn thì buồn, nhưng có anh đễ nhớ
có tình thương làm cứu cánh đời mình
dù vô hình, dù chỉ trong cõi lạ
cõi vô thường tim tôi được hồi sinh
*
Là bóng dáng tôi chờ từ miên viễn
một hôm nào quấn quýt cạnh hồn tôi
như vòng tròn từ trường lan rộng mãi
thành tấm thảm thần chở tôi trên mây
*
Tôi yên lặng ngắm lại nhau thuở ấy
rồi bàng hoàng, tuyệt diệu mất rồi sao
có mơ không, không, anh là thật đấy
mình chưa ngủ mà, đâu phải chiêm bao
*
 tôi chết, trái tim tôi vẫn đập
nó nhớ anh, muốn gặp lại một lần
nó qùi đọc chúc di tôi gửi lại
nhớ cầm linh hồn, rải biển tặng anh
 
đht
 


MỘT LẦN ĐI ANH


 
Anh về thăm xóm nhỏ
có hương gió tuổi hồng
cánh diều vi vu gió
và mùa trái cấm thơm
*
Anh về mùa hương cốm
quên tuổi buồn lưu vong
đây nì hôn đằm thắm
ủ kín từ trăm năm
*
Anh về vun xới lại
vườn cỏ em mùa Đông
gieo hạt thơ tình ái
cho kịp nắng Hạ nồng
*
Anh về hôn tóc nhé
mái tóc chưa điểm sương
dù thời gian vô lễ
không chịu dừng gót chân
*
Anh về thăm một chuyến
em và tình bất di
cho hương xưa đồng nội
đừng trở thành cố tri

đông hương
 



VỀ MỘT NÉT ĐẸP

 
 
Người là nửa mảnh tim tôi
sợi tình đã cột từ giây phút đầu
ngai người để thật tuyệt cao
dán bằng cảm xúc, nước màu đời tôi
*
Người là nửa mảnh hồn tôi
tâm linh ngọn lửa sáng ngời chân tâm
chỗ người chiếc ghế yêu thương
dành riêng trong một ngôi vườn mộng thi
*
Người là một nửa kỷ tri
tôi trang điểm để vị thi tầm nhìn
biết người là một thi nhân
tôi đem hương sắc đài trang gửi người
*
Người là một nửa phổi tôi
chia phần hơi thở , cắn đôi vui buồn
mời người vào giữa hồng tâm
nghe tim gõ nhịp nhớ mong nguyên đời
*
Cám ơn trời đã cho tôi
trái tim tri kỷ tuyệt vời thủy chung
người như ngọn nắng tình hồng
của trời mùa Hạ dưới trần gian thô
 
đht


CAFÉ - MƯA VÀ NƯỚC MẶT

 
 
Hôm nay con nắng chưa về kịp
nên mưa vẫn nức nở nhạt nhòe
hàng lá nhũn mưa nên rũ liệt
chim trời cánh ướt thảm thương ghê
*
Anh ạ, dù mùa Thu chưa dứt
sao em vẫn thấy lạnh xuyên hồn
có phải vì xa nhau, ray rứt
trong lòng lấm tấm chút hàn đông
*
Giấc ngủ em thôi tròn từ độ
không còn ánh mắt dấu yêu xưa
không gian quanh thật là xa lạ
dư hương anh thoang thoảng mơ hồ
*
Tình cảm trầm thăng theo nỗi nhớ
trái buồn chín đỏ rớt trên tay
 cắn thử xem ngọt bùi hay đắng
cà phê không đường và rất cay
*
Thương Yêu ơi, mắt em vừa khóc
hạt ứ tràn rèm mi mắt ngoan
em hiểu hình như em đánh mất
tay Thương nên mưa gió hoành hành
 
đht
 
 
 
 
 
 
 
 
 



TÔI TÌM TÔI GIỮA...

 
 
Tôi tìm tôi giữa mênh mông
giữa từng ngọn nắng sớm hồng ban mai
tôi tìm anh qua tháng ngày
tìm anh để nhớ khắc giây tuyệt trần
*
Tôi tìm tôi giữa phù vân
giữa rừng núi tím hoàng hôn chưa về
tôi tìm anh, bóng đam mê
tìm anh bắt chuỗi pha lê phải ngừng
*
Tôi tìm tôi giữa giòng buồn
giữa đêm hoài niệm tri âm hằng giờ
tôi tìm anh trong tình thư
tìm anh cư ẩn trong thơ chập chờn
*
Tôi tìm tôi, mùa lá vàng
giữa từng cánh lá ngỡ ngàng rơi rơi
tôi tìm anh giữa mọi người
khó nhầm lẫn, dẫu mắt tôi mù lòa
 
*
 
Tôi tìm tôi, để hiểu rằng
thương anh một khắc đời ...bằng.... thiên thu
 
đht

VẨN VƠ MỘT MÌNH

 
 
Buồn, ngồi xếp áo đoan trang
giấu trong sâu dưới tập san Tình Người
ngày nào khoác lại hỡi tôi?
cũ - nhàu luôn cả nụ cười vừa thêu
*
Vẩn vơ nhớ lại thuở đầu
hôm anh ướm hỏi vì đâu em buồn
hỏi tim anh - đừng hỏi em
vì lời giải đáp anh cầm trong tay
*
Nhỉ mình cũng đỗi lá lay
em xin thú tội vì cay đắng đời
mơ hồ như sương chiều rơi
vân du, uốn khúc quanh môi sảng hào
*
Liều mình bạn với canh thâu
em xanh xao bệnh má đào trầm luân
ngải bùa, phương thuốc tình nhân
giờ thôi hiệu nghiệm, vì không thật thà
*
Ngồi buồn vẽ cuộc tình xa
thiên nhai cửa khoá, nguyệt hà phù vân
nỗi vui cũng chợt phù trầm
trách ai chừ? trách duyên phần trời ban
 
đht
 

samedi 12 novembre 2016

NGẮM ĐÊM




Đêm tôi ngồi, ngắm giòng sông thiên hạ
xuôi về đâu? biển hạnh phúc hay nguồn
tôi gắng nhớ thử giữa giòng bước lạ
mẫu chân nào đúng kích thước người thương
*
Không buồn vui, dửng dưng như phiến đá
tim đã mòn từ thuở để người đi
mùa Thu chết, qua đời, cây trụi lá
buông tầm nhìn cho vợi bớt mê si
*
Quên, muốn lắm nhưng tính mình nhạy cảm
hay kéo về thêm băng giá cho tim
lại quyến luyến, lại rưng rưng nước mắt
nghe nín câm đang ngồi khóc một mình
*
Vòng vo mãi cũng lại về chốn cũ
trong nghĩa trang thương nhớ cỏ mồ côi
tôi dắt tôi vào thăm ngôi mộ mới
khắc tên người nằm đó...ơ tên tôi
*
Chỉ là mộng giữa những đêm thao thức
ôm cô đơn ngồi đọc lại thơ người
dưới ánh sáng tiều tụy cây bạch lạp
bóng trên tường dang tay mọc mời tôi
 
đht
 

vendredi 11 novembre 2016

PHIÊN GÁC ĐÊM

 

 
 
Khuya tiền đồn, phiên gác đêm lạnh tẻ
 mưa bụi bay bay lặng lẽ vô hình
vỏ đạn đồng từ chiến trường, nhặt giữ
định ngày về, làm sính lễ cho em
*
Một đời trai và trăm ngàn chiến trận
bom đạn chờ dội lấm tấm hoả châu
đêm tiền đồn, trong vài giây phút lặng
 nhớ hậu phương và bóng dáng ai sầu
*
Cứ ước mơ hôm nào về được phố
tặng cho em một đoá lan rừng khô
 lính hành quân, băng qua rừng qua suối
có nhiều lần bùn đóng cứng giày Saut
*
Mảnh bom vỡ cạnh tim, anh ngỡ chết
vết thương không băng bó, rỉ ri hồng
dù hơi thở như chỉ mành dễ đứt
vậy mà nhớ em, nhớ lây SàiGòn
 
đht

vendredi 24 juin 2016

GIỌT SƯƠNG SỚM




Bức thư nhà thương gửi vừa nhận được sáng hôm nay. Vậy là xong, tử thần đã xử án:
_ Ung thư phổi!
Hèn chi mà mình ho nhiều tràng ho đến gãy gập người , nhiều tràng ho trong đêm rát cả cỏ, khan cả tiếng . Ngồi đây viết tiếp thư cho anh để báo tin chẳng biết buồn hay vui . Vui? Chắc gì anh có thì giờ hỏi thăm mà vui? Buồn ? chắc gì anh đã nhớ mà buồn ! ? Trời hôm nay nắng cuối , thu đã qua gần nửa độ.Nắng vẫn còn trong veo như pha lê nhưng gío không còn cuả muà hè, lạnh và làm em ho.Em đi thơ thẩn trong vườn , cố nhìn để nhớ và in thành hình trong đầu để ngày em đi em sẽ đem theo những tiếc nuối đó, khoản đời cũng gần ba mươi năm sống trên mảnh đất này. Ba mươi năm không buồn không vui, không nói được nhiều tiếng quê mẹ, em sống như cái bóng; em như bức hình treo tường , khô khan tiếng nói, khô khan tình cảm, khô khan .... Em lại có cơ hội gặp chị T. chị đã mớm cho em mở cưả hồn mình , em trở lại tuổi trăng sắp tròn và đã bắt đầu làm thơ .Thơ em chỉ nói về trời đất , vài tình yêu hư cấu , viết cho đứa em gái buồn tình duyên dang dở , không hề viết về em. Rồi em chịu tang , khăn trắng trên đầu lần thứ hai cuộc đời trong lúc em đang còn cần tiếng nói yêu thương cuả người cha còn lại, ông đã bỏ đi , không được gặp. Trời lại xui khiến cho em gặp anh, thật ra gặp thơ anh thì phải hơn.
Quen anh qua thư từ , nhớ anh lúc bắt đầu nghe giọng nói cũng mới đủ sinh nhật một năm đúng , nhưng thật ra , em đã nhớ anh từ bao nhiêu kiếp rồi . Em cầm cái ảnh chụp hình phổi , chỉ thấy mấy vết đen muốn loang rộng trên lá phổi bên trái, chỗ ngay gần trái tim. Em sẽ còn bao lâu thì giờ để còn được ngồi trước computer làm thơ, viết thư cho anh, cho bạn bè và viết nhật ký đời mình ? Em sẽ sống cho hiện tại vì tương lai em là cuả tử thần . Đọc thư nhà thương , em không có cảm giác gì cả, lại nghêu ngao:
_Lên xe tiễn em đi ...
Chưa bao giờ buồn thế,... ai buồn ? Và tiển em đi dâu ? xa ? gần ? Khi nào ? chỗ em sẽ đến chắc suốt đời thèm trăng soi phải không anh ?
Trên con đường anh đi, lệ em buồn vương vấn ? lệ em lúc đó sẽ là những cơn mưa ướt áo anh , nhưng sợ chỗ anh sống có đủ mưa không ? vậy em sẽ là sương đọng trên lá cuả những cây trong vườn anh nghe anh ? được không ?
Buổi sáng , khi anh ra vườn ngắm cảnh , không còn con chim lạ mắt nâu, lông cánh vàng hay đậu trên giàn hoa hồng mỗi ngày nhưng anh sẽ thấy trên những đoá hồng , nhất là đoá hồng tím anh yêu thích có vài giọt sương đang lóng lánh mừng anh, anh cứ đến cầm cánh hoa cho giọt sương rơi trên tay anh , anh cầm lấy , uống đi vì đó là giọt nước mắt của em, tinh hoa cuả em tặng cho anh từ một hành tinh xa lạ.
Ce n'est qu 'un aurevoir.
Em
............................
Thư em đến tay tôi 3 tháng sau vì lúc đó tôi đang cùng gia đình đi Caraibe .Trên tàu , ngoài khơi, đêm đầu tiên lênh đênh trên biển, trăng rỡ ràng , tuy đêm nhưng trời xanh biếc không chút mây, gia đình đã đi nghỉ, chưa buồn ngủ, tôi lần theo lên boong tàu cùng người bạn đi chung đứng nhìn trời, nói tàm xàm vài ba câu chuyện từ chính trị đến chuyện viết lách , vì anh ta cũng là một nhà thi sĩ nổi tiếng trong cộng đồng người Việt hải ngoại, từ gia đình đến chuyện con cái , vợ anh mới mất cách đây không lâu vì một bịnh hiểm nghèo. Anh không con cái, nghe tôi đi chơi anh xin tháp tùng cho vui vì anh với tôi dù không thân lắm vì ít khi có dịp gặp nhau thường nhưng tính anh rất chất phát , hiền lành nên tôi qúi mến anh .
Trong một vài giây phút ngắn, bỗng dưng không còn hiểu anh đang nói gì , tôi nghe tiếng tim mình đập mạnh, tôi tự dưng có cảm giác khó chiụ trong người , tôi ngẩn nhìn trời trước mặt, vệt trăng vàng đang lung linh trên mặt sóng , gió hiu hiu lành lạnh vì đã khá khuya, giữa những chòm sao lấp lánh; bỗng nhiên có một ngôi sao thật sáng đổi ngôi rơi xẹt đi, tôi vội mở nút áo , định xin thầm một ước mong nào đó,nhưng chưa kịp thì ngôi sao băng đã biến mất dưới chân trời tối đen giáp mặt biển ngoài khơi.Khi không nụ cười em hiện ra rực rỡ trong một phút giây làm tôi nghĩ đến em , không biết giờ này em đang làm gì, còn thức làm thơ ? Đọc thơ tôi hay đã chìm vào cơn mộng nào đó mà tôi có được dự phần vào không ?
Tôi bỗng nhớ em , chưa bao giờ tôi nhớ em như tối hôm nay. Tôi nghĩ mình yêu thương em ít hơn em thương yêu tôi, tôi sống với nội tâm nên ít khi để tình cảm lộ ra ,thư tôi ngắn ,không viết trọn những lời yêu thương mà em muốn đọc được như em hằng mong ước, dù cái ước mong cuả em nó luôn luôn quá dễ thương , hiền lành và thật nhỏ nhoi .
Còn cả nửa tháng dài nữa tôi mới trở về nhà, tôi biết tôi sẽ được đọc cả trăm lá thư em gửi nằm chờ người đọc . Tôi có thói quen thích đọc thư em nhưng lười trả lời, một phần lớn tại tôi bận bịu in cho xong tuyển tập thơ đang viết dở , một phần tôi "keo kiệt " chữ , biết em mong thư tôi nhưng lâu lâu tôi mới trả lời em một lần, tuy vậy em và tôi đã thoả thuận với nhau khi nào tôi rảnh sẽ viết cho em , như thế, những ngày không có thư tôi , em không nghĩ là tôi không nhớ em để em khỏi buồn .Tôi biết ngày nào em vào trang nhà và không thấy thư tôi là nước mắt em lại trào như thác tuy em vẫn hiểu tôi , hiểu tình tôi dành riêng cho em là trọn cả cuộc đời.Tôi vẫn nói với em
" Em đừng lo sợ mất anh khi em vẫn còn yêu anh "
. Tôi định bụng , sau khi tập thơ đã được sửa xong và ra đời, tôi sẽ cố gắng bỏ thói keo kiệt và sẽ viết cho em nhiều hơn xưa.
.............................
Tôi nhìn trên bàn, lơ đãng cầm lên tay chồng thư đang chờ tôi.Có một lá thư đóng dấu tem ngoại quốc, tôi vội nhìn địa chỉ người gửi:
Em gái cuả em !Linh tính cho biết có chuyện gì không ổn, tôi vội xé lá thư:

Paris, ngày..tháng..
Thưa anh,
Em viết vài hàng ngắn , báo cho anh tin buồn, chị em đã mất cách đây 2 tuần lễ , lúc mười hai giờ đêm....
Trời ơi, tôi thấy mặt đất gần lại, tim ngừng đập.
Em đã xa tôi vĩnh viễn, em chính là ngôi sao băng tôi đã nhìn thấy đêm hôm đó sao?
_Tuần rồi em và gia đình đã đưa chị ra biển. Em đã làm theo ý cuối cùng chị muốn, đốt hết tập thơ anh và thư anh để cùng rãi theo chị và thả một đóa hồng trắng hoa chị thích trong vườn nhà anh đã hái cho chị ngày xưa.
Thôi em ngừng , vì phải còn nhiều việc cần giải quyết trước khi em trở về nhà.
ĐL
Thật vậy sao em ? em đã xa tôi ! Không còn biết suy nghĩ gì nữa, tôi như người mất hồn em ơi !Lần đầu tiên từ lâu lắm rồi , tôi cảm nhận được vị cay của ớt trong mắt và vị mặn của muối trên môi . Tôi hưá từ đây mỗi ngày sẽ ra đón những giọt sương buổi sáng và sẽ uống trọn như em đã mong tôi làm.
_Giờ thì.... lên xe tiển em đi
_Chưa bao giờ ..... buồn thế ....!

Mong đây chỉ ce n'est qu 'un aurevoir ! Toi et moi, on se reverra dans un monde où il n'y aura que Toi: ma Rose Violette et Moi pour l'Éternité !

đht ( đông hương )

samedi 18 juin 2016

CUỐI NGỌN NẮNG TRÔI

 

 


Trời nắng gắt .Những đám mây lông cừu trôi nhẹ nhàng, chầm chậm.Không gió, trời xanh bỗng mờ dần sau hơi nắng đang bốc cao, mờ mờ như làn sương mong mỏng.
Thạch Hương ngồi trên ghế đu, tập thơ tay viết từ lâu nay mới có dịp được nhìn thấy ánh sáng mặt trời.Tập thơ kèm thêm những lá thư cũ cuả Văn gửi ngày Văn vưà vào đại học

•HUYỀN THOẠI TUỔI NGỌC EM


Văn ơi ! anh hỏi tuổi ngọc em à ? Anh còn nhớ chút nào không hở Văn ? Em không còn tuổi ngọc, em đã là ….
Hồi đó anh cứ cho em làm khó, làm dễ, kiêu kỳ, lạnh lùng xa lạ ?
Con gái mà anh, lại là cô gái Đồng Khánh nữa !
Không phải vậy đâu anh. Anh đoán trật hết rồi, tại cái nhìn của anh nó lưu luyến quá nên em sợ.
Anh đã hỏi em sợ gì ? Em sợ mai sau . Phải đó, 2 chữ mai sau làm em suy nghĩ lui, suy nghĩ tới mai sau dù có bao giờ ??
Em ngồi viết những dòng chữ này, cái nóng ngoài trời thiêu đốt da thịt vì em bận áo tay ngắn. Mồ hôi chảy giọt, mồ hôi mặn muối. Uả , mà sao trên trang giấy cũng nhòe ? À, tại mồ hôi trong mắt em rơi trên đó đó Văn ơi.
Xa nhau từ khuya, từ khuya thời gian chứ không phải là đêm đâu anh.
Em đang ngồi đọc truyện cuả một tác giả quen thuộc, viết quá hay, hay là tại truyện truyền cảm quá đến nổi em sống trong từng nhân vật, rồi tưởng là chuyện thật đời mình., em đang cạnh anh. Anh trong vai tù nhân, anh trong vai người vượt biên, khi gặp lại vợ mình, vợ mình đã có chồng khác ; anh trong vai người lính đi tù về với mảnh đạn còn trong đầu, anh trong vai người say, anh trong vai……
Văn ơi ! lâu lắm rồi em chưa được trở lại đi bên anh, nhìn sông Hương buồn anh hay nóí :
_Sông không những mang tên em, mà tâm tình cũng giống em, trên mặt lững lờ, sóng lăn tăn,nhưng là những con sóng ngầm dưới đáy, cuồn cuộn, nóng bỏng, sâu kín, mắt em chứa cả một trời thương nhớ vô cùng tận, anh lặn mãi vẫn chưa thấy đáy bao giờ !
-mắt em như một tinh cầu mộng
chứa cả đam mê vạn lý tình *
Nhưng ngày nay, Văn còn giữ lập trường của anh không ? vì em xa anh lâu lắm . Em bỏ Huế theo ba mẹ vào Nam, rồi ba lại gửi em lên Đà Lạt vào trường xơ  muốn cho em giỏi ngoại ngữ, nên em bặt tin anh từ đó. Em rất buồn, tưởng đã mất Văn luôn rồi, nhưng trời cũng còn thương em.
Ngày vào thi vấn đáp Anh Văn tú tài đôi, em đang ngồi ôn lại bài chờ đến phiên mình nên không thấy một cặp mắt nào đó đang chăm chú nhìn mình .
_Cô Thạch Hương
Nghe giọng quen quen, em ngửng đầu:
_Thưa thầ...y ; là là e....m
_Thạch Hương ! tô..i a…nh không ngờ lại gặp Thạch Hương !
Văn nói nhỏ :
- Em chờ anh lát nữa cùng về.
- _Thư…a Thầ…y con sợ !
- _Con ??
- _Dạ, tại quen miệng gọi thầy cô lâu ni, dạ, sợ đi với thầ….y , người ta dị nghị.
- ???
- Nói vậy nhưng Thạch Hương cũng chờ Văn hơi xa xa cổng trường Gia Long một tí.
- 3 năm, 3 năm mà dài bằng mười thế kỷ ! Em tưởng Văn quên mất em rồi chứ !
- Văn dạy ngoại ngữ ở Long Xuyên. Từ lúc gặp lại Thạch Hương, Văn vẫn về SàiGòn mỗi cuối tuần.
- Giờ em đã là người lớn, xinh ra, duyên dáng ra, tóm lại mẹ hay nói là
lúc ni con gái mẹ đã trổ mã, đặc biệt miệng rất có duyên với chiếc răng khểnh Văn rất thích, Văn đã viết thành thơ ngay từ đầu mới quen.
- Văn vẫn vậy, vẫn dáng gầy gầy, vẫn mái tóc bơ vơ em đặt tên vì có một chùm tóc cứ rơi rũ xuống chiếc trán rộng, đôi mắt to đen được nấp sau hai gọng kính cận trắng rất thư sinh, nụ cười tươi hiền dịu đã làm cho các cô Đồng Khánh lúc xưa ngày em còn rất trẻ mềm lòng, nhưng em là người may mắn chiếm được con tim Văn trước mọi người. Văn mồ côi cha mẹ từ bé, được người cô em cha Văn nuôi , giờ cô đã mất nên Văn mồ côi hai lần.
Vì vậy Văn rất thương ba mẹ Thạch Hương như cha mẹ ruột mình, và ba mẹ Thạch Hương cũng xem Văn như con, bây giờ thì ông bà muốn Văn thành con rễ.
Văn vẫn đến nhà mỗi chiều thứ bảy đưa Thạch Hương đi chơi, đi ăn tiệm, lâu lâu dẫn đi nghe nhạc phòng trà, đưa Thạch Hương đi Queen Bee, đêm màu hồng cùng với bạn, hay đưa Thạch Hương đi khiêu vũ, tiếng là đi khiêu vũ nhưng thật ra vì đám bạn thân của Văn, Văn không thích nhảy, còn Thạch Hương
lại quá dốt vì cho đến bây chừ cũng không biết nhảy vì ba me không cho Thạch Hương đi đâu cả, cho đến lúc gặp lại Văn.
Văn không uống rượu, không hút thuốc, chỉ cùng quá là một cốc bia, nên dưới mắt ba mẹ Thạch Hương, Văn thật hoàn toàn người đàn ông mà ông bà muốn chọn cho con gái mình.
- ………….
- Chiến sự bắt đầu thay đổi, tiếng súng đại bác xa xa đã bắt đầu nghe gầm gừ.
- Văn bỏ dạy, theo học khoá sĩ quan Đà Lạt 3 năm . Trở về, Văn vào quân đội .
- Đơn vị Văn được đưa đi xa tận Kontum, Pleiku... lâu lâu mới có ngày phép về thăm Thạch Hương.
- Văn ơi, SàiGòn không Văn, buồn chi lạ. Nhưng mỗi lần Văn về phép trong bộ quân phục hoa rừng, mấy ngôi sao bên vai chiếu lấp lánh dưới nắng, em đi bên cạnh Văn, hãnh diện vô cùng.
Văn xin ba mẹ cho cưới Thạch Hương vào dịp Tết, còn chỉ vài tháng nữa thôi. Nhưng Tết cũng đã qua lâu rồi , đơn vị Văn bị cấm trại 100/100 , tin Văn biền biệt.
- Văn ơi ! em như người không hồn, em đi tìm Văn khắp nơi, từ văn phòng quân sự này đến văn phòng khác, chỉ biết phong phanh có thể Văn đang ở Pleime, hay Đồng Xoài, hay Bình Giã vvv.
- Thạch Hương gầy rạc người . Muốn cho con gái mình bớt buồn, ba me Thạch Hương gửi Thạch Hương đi ngoại quốc học.
- _ Văn ơi, không có Văn, em không biết làm gì về cuộc đời mình, thì giờ thừa thải, lòng rỗng tuếch, em theo Hồng Thập Tự đi Án Độ, vào những trại cùi, chia sẻ và xoa dịu bớt khổ đau của những con người tật nguyền .
Tuy em không cùi thân thể, nhưng linh hồn và tương lai em cũng đã cùi từ ngày vắng Văn !
- Cả gần chục năm trời, em vẫn để tang Văn, xem như anh không còn nữa. Lòng em bây giờ đúng như tên cúng cơm của em
- :_ nàng Hương hoá đá :Thạch Hương
!
......

- SàiGòn, Tân Sơn Nhất

Bao lâu rồi em chưa trở lại đây, đây đâu còn chi nữa ngoài ba mẹ để em lưu luyến ?
Vừa thấy Thạch Hương xách vali ra cửa, mẹ ôm chầm vai khóc
- Mẹ, con về thăm ba mẹ sao mẹ lại buồn dữ rưá ?
Chầm chậm, mẹ lấy từ xách tay đưa cho Thạch Hương một phong thư đã ngả vàng .
- Thư gì đây ?
-  Con về nhà hãy đọc.

SG, ngày.. tháng…

Thạch Hương,

Anh xin lỗi đã dối em, anh đã về lại SàiGòn từ lâu, nhưng anh không muốn gặp em, vì anh bây giờ không còn nguyên vẹn để cho em cuộc đời mình. Anh đã vì một lý do khó nói  anh đã lập gia đình với một người không phải là em . Anh biết em sẽ đau buồn lắm, nhưng anh không thể nào làm khác, mong em hiểu và hãy quên anh . Em cứ xem anh đã chết. Anh đã phản bội em, anh không mong em tha thứ .
Anh muốn thấy em lập gia đình, và hạnh phúc hơn anh.
Tạ tội cùng em
Văn
-Trời ơi ! té ra bao nhiêu năm nay em thương nhớ, không hy vọng nhưng vẫn đợi chờ và thủy chung nhứt dạ, Văn lại tệ với em đến thế sao ?
Cả tuần lễ dài, Thạch Hương không cười không nói. Mẹ vẫn theo cạnh gạ chuyện cho Thạch Hương bớt buồn.Cha cũng âm thâm nhìn con gái mình rũ rượi, buồn hiu theo.
Đêm cuối ở nhà, Thạch Hương đã vào phòng, sắp tắt đèn vào giường đi ngủ, có tiếng chân dừng lại ngoài hành lang trước phòng, tiếng gõ của nhè nhẹ
-Thạch Hương, mẹ vào được không ? mẹ muốn nói với con một chuyện quan trọng.
Thạch Hương bước lại mở cửa :
-Chuyện chi vậy mẹ ?
-Chuyện Văn
Thạch Hương thở dài
-Thôi mẹ, cho con xin, hãy để cho con được bình yên tâm hồn, con không muốn mẹ nhắc đến con người phản trắc ấy nữa .
-Thạch Hương, khoan trách đã, nghe mẹ nói rồi con muốn nghĩ sao là quyền của con .
-Văn đã trở về từ Pleime, sau một trận đánh ác liệt, mặt Văn bị mảnh bom lửa trúng, chỉ còn lại mỗi một con mắt, nửa mặt kia cháy nám, thêm cụt một chân. Văn có nhờ bạn ngầm cho mẹ và ba hay tin Văn còn sống, nhưng xin mẹ thề không cho con biết
Ngày con ra phi trường mấy năm trước Văn có mặt ờ đấy, muốn nhìn con lần chót trước khi mất con luôn.
Nhìn con ra máy bay, nước mắt Văn ứa ra từ con mắt còn lại, ba mẹ rất đau lòng . Sau đó ba mẹ đưa Văn về ở nhà của chú Sáu con, chú Sáu con là bác sĩ trong quân đội, chú Sáu con hết lòng lo cho Văn, nhưng một năm sau, vì những vết thương trầm trọng, thêm vào bệnh tinh thần, nhớ thương con, Văn đã chết trên tay mẹ .
Hôm mẹ và ba đưa con đi thăm mộ nói là mộ của người bà con , nhưng thật ra là mộ Văn đó Thạch Hương à .Trước lúc con về thăm, mẹ và ba đã cho người xây lại mộ cho Văn. Nghe tin con về, ba biểu mẹ khoan khắc chữ và tên lên bia đá, sợ con hiểu ra sự thật mà xót xa.
Nhưng mẹ nhìn con, mẹ không đành lòng, nên mẹ muốn con lên thăm Văn trước khi trở lại xa nhà, cho Văn từ dưới sâu được nhìn con lần này là lần chót.
-Trời ơi anh !
Thạch Hương té sụp xuống đất
-Em đâu có dè !Tiếng kêu tắt ngang cổ họng, nước mắt trào như dòng lũ.
-Văn ơi ! bây giờ Văn mới thật là vĩnh viễn của em !



đông hương

SẮC HOA THỜI LOẠN

by


( Nguồn từ cộng đồng người Việt Quốc Gia Hoa Kỳ 
Không ngờ chuyện SHTL của tôi đã được yêu chuộng như vậy.
Rât cám ơn, và cám ơn A/C Minh Hiếu854 đã đăng trên diễn đàn này)

đông hương


Đây là chuyện thật của người bạn học cũ của tôi và người lính Biệt Động Quân VNCH, sau 40 năm thất lạc nhau vì chiến tranh, một bất ngờ duyên trời đã cho anh chị gặp lại nhau, và tôi được nghe anh chị kể cho tôi về một phần đời của họ đầy vui, buồn, sợ hãi, chán chường của một người con gái đẹp đã vì hoàn cảnh mà ra nông nỗi ấy, của một người trai thời loạn thất chí, vì không làm tròn trọng trách đối với núi sông. Hôm được anh chị mời đến nhà chơi, qua một tách trà sen Huế (anh chị và tôi đều gốc Huế), anh nhìn vợ, âu yếm bảo:

– Em kể lại chuyện tình mình cho Mousti ( nickname của tôi ) nghe đi, anh nghĩ Mousti sẽ thích chuyện tình đẹp của mình, đẹp như một chuyện cổ tích…và chị bắt đầu kể, anh ngồi nghe,lâu lâu thêm vào một vài chi tiết..
Anh nhìn tôi, tay vuốt tóc chị, nói với tôi:
– Cánh Hoa Thời Loạn. Xong quay lại nói với chị:
Anh phải đem em về lại Huế ngày nào đó nhé cưng.
Hạnh phúc thật là nhỏ bé mà đồng thời cũng thật lớn vô cùng.
Gặp nhau chỉ có một giờ
Tình yêu bất tận chẳng ngờ tái sinh… (Thơ của anh)

Tôi mất anh đã hơn 40 năm rồi, ngày mà quê hương còn rền vang tiếng súng, tiếng đại bác của những trận chiến ác liệt như Pleime, Đồng Xoài, Bình Giả…

Lúc đó tôi còn là một người đàn bà 25 tuổi, mở một quán rượu gần đồn lính, thời bấy giờ không biết làm gì để nuôi cuộc sống của mình, cha mẹ chết, có người yêu đi lính cũng đã gục ngã trên chiến trường, nhà cửa tiêu tan vì chiến tranh, buồn quá, nhân có con bạn học cũ hoàn cảnh gần như tôi, nhưng nó còn đau hơn tôi là chồng nó bỏ gia đình đi tập kết ra Bắc, bỏ lại vợ con nheo nhóc buôn thúng bán bưng sống qua ngày. Hai đứa tôi, nhìn vẫn còn mặn mà lắm, ngày còn đi học là hai hoa khôi của Gia Long. Bây giờ nghĩ lại thời gian đẹp này chỉ còn trong hoài niệm. Tôi bây giờ đau đớn nói ra, mình đã là một cô gái giang hồ, nôm na là gái điếm. Khách của Vân và tôi gần như là lính, vì thành phố tôi đang ở gần một trại lính. Vân rủ tôi mở quán rượu ở đây vì vậy. Lính là những người sống chết không biết ngày nào nên họ ăn chơi bạt mạng, hễ cuối tháng lãnh lương ra là đến quán nhậu, rượu chè, gái…họ sống như vậy, lao mình vào những ly rượu mạnh để quên nỗi sợ những tiếng súng, những tiếng đại bác, những hầm chông cọc nhọn đang chờ, quên đi tử thần đang rình đâu đó.. Cũng may là Vân và tôi không còn gia đình, nếu không tôi không biết phải ăn nói làm sao với cha mẹ mình về cái nghề tôi đang làm! Lúc mới đầu chưa quen với nghề này, tôi ghét lắm những bàn tay vô tình để lên không đúng chỗ trên thân tôi, hay tiếng đùa giỡn quá trớn của những anh lính uống say, khi tôi đi ngang qua bàn, víu vai tôi xuống, ôm mặt tôi đặt chiếc hôn nặc nồng mùi rượu… có lúc tôi chán nản, muốn bỏ nghề đi tìm một nghề khác dù không đủ tiền nuôi mình, nhưng sau đó, ngày qua ngày, tháng qua tháng rồi cũng bắt đầu quen. Tuy vậy nhiều khi nhìn Vân ngả ngớn với mọi người, ăn mặc hở hang, lắm lúc nó ngồi luôn trên chân khách, ỏn ẻn như muốn làm tình luôn ngay tại chỗ. Tôi nhìn những cử chỉ ấy, rồi thấy tởm cho chính mình luôn. Có những chàng lính trẻ khuôn mặt còn non, có thể nặn ra sữa được, phần đông là học sinh bị rớt Tú Tài, đến tuổi phải đăng lính thì nhiều lắm là cỡ tuổi em trai út mình thôi, vậy mà phải chịu đựng khói thuốc trong căn phòng không mấy sạch, vì làm gì có thời gian để thay đổi chiếu, chăn, nhiều đêm phải tiếp vài người khách là gần trắng đêm rồi, vì họ cho rằng tiền trao cháo múc. Có những lần tôi gọi là xáp la cà vì sự hùng hục không chút dịu dàng, sao cho thoả mản sinh lý là được, không tình cảm trong đó, chính tôi, tôi cũng chẳng muốn có tình cảm. Tôi tuy là một gái điếm nhưng tôi vẫn trọng phần hồn mình, chuyện làm tình với bất cứ ai chỉ là chuyện kiếm cơm mỗi ngày, không ăn thua gì đến trái tim mình cả, quan niệm tôi là vậy. Tôi cũng không bao giờ hy vọng hay ước mong ngày nào đó sẽ có một người sẽ đến yêu tôi và đưa tôi ra khỏi chốn bùn nhơ này. Rồi ngày tháng vẫn trôi qua, cuộc đời của Vân và tôi vẫn vậy, vẫn nhịn nhục chìu chuộng những người đàn ông thoáng qua đời chúng tôi trong vài giờ ngắn ngủi rồi ra đi, không để lại chút gì luyến tiếc. Tiền trao cháo múc mà! Rất hiếm những lần truy hoan có người nhìn tôi âu yếm, hay cử chỉ dịu dàng, chỉ có vừa mới chưa kịp cởi đồ là mình đã như con vật bị lên bàn mổ vậy, hùng hục, hùng hục, đúng như nghĩa của chữ này vậy, xong rồi, nằm thở dốc, hút điếu thuốc, mặc lại quần áo và mở cửa bước ra, không một lời chào hay một cái ngoắc tay từ giã…. Toán lính này đi, toán lính khác đến, không có gì thay đổi trong cuộc sống, không biết Vân nghĩ thế nào, phần tôi, tôi nhầy nhụa thêm như mình đang lội trong vũng bùn cuộc đời.
Vậy mà, một hôm anh đến, anh vừa đổi đến đơn vị này; hôm ấy là ngày phép của anh, anh theo đồng bạn đến quán, gọi một chai martell mắc nhất, uống với nhau. Con Vân đi ngang bàn, ngả ngớn với bạn anh, vuốt tóc anh, anh để tự nhiên cho Vân làm, chỉ mỉm cười chào lịch sự. Bàn anh gọi thức nhậu, Vân lo tán tỉnh với bạn anh, nó ngoắc tay nhờ tôi làm giùm. Tôi mang mấy dĩa đồ nhậu đến bàn anh, tôi thấy ánh mắt anh đậu lại trên mắt tôi một khắc, mỉm cười cám ơn; cả bàn gom tiền lại trả, anh móc túi cho riêng tôi một số tiền khá, anh cầm tay tôi, mở tay tôi ra, đặt tiền vào đó và đóng tay tôi lại, rồi thôi.
Chiều ấy, anh nói với Vân muốn tôi tiếp anh, tôi bằng lòng, đưa anh lên phòng. Trong lúc anh ngồi trên ghế, tôi lấy drap và áo gối mới thay, vì chăn chiếu cũ đã có nhiều người nằm trên ấy, mùi thuôc lá, mùi đàn ông, những dấu vết vàng vàng của những lần làm tình trước dơ dáy.

Không hiểu vì sao tôi lại đối với anh đặc biệt như vậy, tôi cũng tự đang hỏi mình. Anh có một khuôn mặt thật…tôi không biết tả ra sao, cái nhìn ấm áp khi anh nhìn tôi. Sửa soạn giường gối sạch sẽ, tôi như bình thường, mời anh lại giường, tôi đứng cởi đồ trước mặt anh, xong tôi dìu anh nằm dài xuống, và từ từ cởi quần áo cho anh, anh để yên cho tôi làm, xong tôi ngồi xuống giường, nằm xuống cạnh anh. Anh dang tay anh ra cho tôi đặt đầu lên, xong quay lại vuốt tóc tôi, hôn lên môi tôi dịu dàng, làm tôi hụt hẫng, bất ngờ trước những cử chỉ trìu mến ấy, rồi anh bắt đầu cuộc chơi. Tôi thú nhận là lần đầu tiên từ ngày tôi làm điếm, tôi có cảm tưởng như tôi là người con gái còn trinh được người yêu yêu mình lần đầu, có một rung động không tên chuyền vào tôi, tôi đáp trả lại anh, tôi không gọi lần này là cuộc truy hoan của một người đàn ông và cô gái điếm. Xong cuộc, anh lấy tấm khăn để trên bàn lau cho tôi và anh, xong anh bảo tôi nằm yên đó, anh chồm dậy lấy bao Capstan châm lửa hút, chợt anh nghe tôi ho, anh giập tắt ngay điếu thuốc chưa kịp hút.
– Tôi làm em ho? Em không chịu được khóí thuốc?
Tôi giật mình xin lỗi nói không phải vì khói thuốc mà ho mà tại tôi có cái tật từ nhỏ là nhạy cảm, và lúc nào bị xúc động là tôi ho. Nghe tôi trả lời, anh ôm đầu tôi lại gần và hôn tôi như anh đang hôn người tình của anh vậy. Rồi hứng lên, anh lại đưa tôi vào cuộc chơi thứ nhì.
Sau lần yêu này, anh đặt đầu anh giữa hai vú tôi, hôn lên đó, và hai vai anh bỗng rung lên, anh khóc nức như đứa trẻ làm tôi sửng sốt. Tôi ôm đầu anh, trìu mến, hỏi anh nguyên do nhưng anh không muốn trả lời…
Anh và tôi nằm yên như vậy một lúc lâu, tôi không còn nghe anh khóc nữa, tôi nhìn anh, anh đang ngủ trên ngực trần tôi. Tôi lấy tay gỡ nhẹ đầu anh, đặt đầu anh lên gối, nhìn anh ngủ, lòng tôi chùng xuống, một tình cảm mới mẻ hiện ra trong tôi không có tên.
Tôi đứng dậy đi tắm và trước khi xuống quán, tôi nhìn anh ngủ, tôi cúi xuống đặt lên môi anh một chiếc hôn hình như có thương yêu trong đó, tôi cũng không hiểu luôn cử chỉ này tại vì sao nữa! Từ ngày hành nghề, tôi luôn tránh nếu có thể những chiếc hôn môi, cái cảm giác lợm giọng hôi nồng nặc thuốc lá và rượu làm tôi muốn ói, nhiều khi khách hôn mình, tôi muốn đấm vào mặt khách một cái, đạp cái thân thể trần truồng xuống đất và chồm dậy mặc nhanh áo quần, chạy trốn như vừa gặp phải ma. Vậy mà chính tôi lại hôn anh.
Tôi xuống quán xem Vân có cần đến tôi không, nhưng tối nay ít khách nên Vân để cho tôi yên.
Tôi xuống bếp làm vài món ăn, đem lên phòng, anh đã tỉnh, vẫn nằm yên trong tư thế con nhộng, trên môi một nụ cười hóm hỉnh, nhìn tôi như nói:
– Em thẹn thấy anh trần truồng phải không? Tôi cười nhẹ không trả lời, trả lời sao bây giờ trong hoàn cảnh tôi, một cô gái điếm mà lại mắc cỡ đứng trước người đàn ông trần truồng như gái nhà lành!
Tôi nói anh đi tắm rồi ra ăn cơm với tôi.Trong lúc anh tắm, tôi lại giường, nằm xuống úp mặt lên gối, ngửi mùi tóc anh và mùi mồ hôi anh còn thoảng trên đó, có chút gì thật dễ thương khó quên!
Xong buổi cơm chiều, hai đứa cởi hết đồ, ôm nhau nằm trên giường, chợt nghe anh thở dài, tôi hỏi anh tại sao và anh chưa hề hỏi cho biết tên tôi cũng như tôi chưa biết tên anh, anh nói:
– Anh với em, mình không có tương lai, mai anh đi rồi, biết sống chết ra sao, và em cũng vậy, ngày anh may mắn còn sống trở về, chắc gì mình còn gặp lại nhau, thì thôi nếu em có chút tình cảm cho anh thì cứ giữ vậy làm kỷ niệm, anh không hề xem em là cô gái giang hồ, chỉ xem em là người con gái bất hạnh của cuộc đời trong chiến tranh mà thôi.
À, mà đây, vừa nói anh vừa tháo ở cổ anh sợi dây chuyền vàng có miếng mề đay nhỏ bằng vàng hình trái tim, có khắc số quân của anh. Tôi ngơ ngác, giương mắt nhìn anh:
– Đó là quà cuối cùng của Mẹ anh cho anh trước khi bà mất trong Tết Mậu Thân Huế, bà cho thợ vàng khắc số quân của anh khi lỡ anh chết trận, có trên cổ anh vừa tấm thẻ bài lính và số quân này, như vậy chắc ăn hơn, bà nghĩ vậy. Bây giờ anh gửi tặng em, giữ lấy như quà cưới, vì hôm nay anh không ngờ trước một sự gặp gỡ dễ thương và đáng nhớ như vầy, xem như hôm nay là ngày cưới anh và em, và đêm nay là đêm động phòng của mình. Anh cảm nhận được tình cảm em qua mấy lần yêu nhau chiều nay, em đã đặt tình cảm em trong đó; anh hiểu rõ lắm, vì trước đây, anh cũng đã sống trong trụy lạc, mê đắm trong thuốc lá, trong rượu, cùng gái điếm với những đêm truy hoan nhưng thú thật , chỉ vì lâu ngày thèm khát đàn bà, với em hôm nay, anh không thèm khát chuyện xác thịt. Lúc đầu anh cũng nghĩ sẽ như những cuộc truy hoan với những cô gái giang hồ khác (trong cuộc nói chuyện, anh vẫn tránh chữ gái điếm, và tôi thầm cảm ơn, sự tế nhị này của anh.)nhưng hôm nay thì không, anh có cảm tưởng người đang nằm bên anh là người yêu của anh.
Anh xem em như người bạn đời của anh dù chỉ gặp nhau trong một đêm, và cuộc tình ngắn ngủi này sẽ theo anh suốt dọc quãng đường anh đi tiếp. Tôi tháo chiếc nhẫn bạc kỷ niệm sinh nhật 18 tuổi của mình, đeo vào ngón tay út anh.
Tôi tắt đèn, và hai đứa lại lao vào những trận yêu bỏng cháy đầy tình cảm…
Liên tiếp tuần sau đó, tôi gặp lại người lính không tên này ngày chủ nhật. Anh đến quán cùng với vài người bạn lính khác, các bạn anh và anh, nhất là anh vẫn oai hùng trong bộ quân phục với áo hoa rừng và chiếc mũ nâu, cũng vẫn khuôn mặt dễ mến mà từ tuần trước khi anh ra về, tôi ra điều kiện với Vân, nếu Vân còn muốn tôi giúp Vân trông nom quán tiếp Vân, tôi sẽ không tiếp khách nữa. Vì hình như tôi vẫn đợi anh đến, tình cảm tôi hình như có sư đổi thay, và hình như tôi có linh tính là cuộc đời tôi đang đến một ngã rẽ khác.
Anh ngồi chơi với bạn, uống một chai bia lạnh hiệu 33, trong không khí đầy khói thuốc lá, mùi rượu, những mẩu chuyện lính đầy tính chất gái giang hồ, và sex; tôi lén để ý anh, anh chỉ ngồi cười nghe bạn, không hoà đồng vào với họ, Vân lăng xăng ôm cổ người này đến người khác, bằng lòng cho khách hôn hít, sờ soạng…
Tôi đứng yên sau quầy rượu, giả vờ lau ly, cốc… Anh quay lại nhìn tôi, mỉm cười chào nhẹ bằng một nụ cười thật hiền và dễ thương. Anh làm hiệu cho tôi đến gần anh, anh đứng dậy kéo ghế cho tôi ngồi cạnh. Nhiều lần mấy đồng đội anh định giở trò ờm ờ, những cử chỉ như đối với Vân, anh đưa tay như bảo họ stop, và lạ lùng nhất là họ nghe anh răm rắp, tôi nghĩ trong toán lính này, anh là chỉ huy của họ, vai vế lớn hơn.
Sau đó, chiều lại, mấy người lính kia đứng dậy đi về trại, anh ngồi lại quán, hỏi Vân với tôi có thể cho anh ăn cơm chiều ở đây không, Vân cười nhìn tôi, ý là cô nàng hiểu anh muốn gì.
Vân đứng dậy dọn ly cốc và vỏ chai không trên bàn, đem đổ tàn thuốc, đưa mắt cho tôi như bảo: Mày lo cho chàng đi. Mâm cơm chiều này tự tay tôi nấu, ngon hay vì cảm tình anh dành cho tôi mà anh thấy ngon?
Chiều nay anh uống hơi nhiều một chút, rồi ngà ngà say, Vân và tôi không để anh về một mình, giữ anh lại cho anh ngủ lại đây.
Sáng hôm sau, khi anh ấy dậy, tôi pha nước cho anh tắm, bưng điểm tâm lên phòng cho anh vì tôi muốn hưởng trọn với anh ấy những giờ phút cuối trước khi anh ấy trở về đơn vị.
Anh kéo ghế sát lại, bảo tôi ngồi cạnh anh, một tay anh cầm cốc café, tay kia anh ôm ngang người tôi, tôi cảm nhận được hơi nóng từ thân thể anh thấm vào người tôi, lòng tôi nhũn ra, nước mắt muốn ứa nhưng không dám vì sợ anh buồn, biết tôi đang buồn.
Anh ôm tôi chặt trong vòng tay mạnh mẽ của anh, chặt nhưng trìu mến chứ không như lũ khách tôi thường gặp.

Rồi cũng phải đến giờ xa nhau. Anh cầm tay tôi, quàng cổ tôi đi xuống cầu thang, tôi không để ý đến bao thuốc Capstan anh quên trên bàn. Xuống quán, anh hôn má Vân từ giã, và hôn tôi nồng nàn, môi tôi và anh như bị gắn chặt bởi một thứ keo đặc biệt mà thiên hạ gọi là keo sơn. Vân hỏi anh bao giờ anh ghé ngang, anh chỉ cười, đưa tay lắc lắc như nói không biết được, rồi anh đi. Tôi nhìn theo bóng anh, tim tôi muốn ngất đi vì thương nhớ.
Tôi bỏ Vân một mình vì sớm quá, quán chưa đông, tôi lên phòng, đóng cửa định ngồi khóc cho đã, chợt nhìn thấy trên bàn gói Capstan anh quên, nhưng tôi biết anh xa rồi nên thôi. Tôi mở gói thuốc xem còn thuốc nhiều hay không, chợt tôi khựng lại; trong bao thuốc có một bao giấy gói, tôi mở ra xem: một tấm hình anh có lẽ ngày còn sinh viên, vì trẻ lắm, một số tiền và một lá thư ngắn có theo một bài thơ.
– Em giữ hộ anh nhé, tiền lương tháng này anh vừa lãnh, vì lúc này anh chưa cần đến, và anh tặng em hình chụp ngày anh vừa 17 tuổi như một kỷ niệm. Em giữ số lương anh đến khi nào gặp lại anh em hãy đưa trả anh, còn nếu rủi không gặp nữa, em cứ giữ lấy phòng thân vì không ai biết ngày mai như thế nào với chiến tranh,
GỬI EM CHÚT QUÀ
(Bài thơ này anh viết trong đêm khi em ngủ ngoan giấc bên cạnh, anh ngồi dậy viết vội tặng em.)
Mai lên nớ bao giờ gặp lại
Ta biết em trong phút si cuồng
Thằng lính trận thấy lòng ấm lại
Tình của mình dù chỉ một đêm….

Mai lên nớ thèm môi nào ngọt
Phút hiến dâng như cả đời mình
Ta bỗng chốc thành thằng ngu độn
Chín bệ vàng hoàng hậu nương nương

Mai lên nớ say cùng chiến trận
Dòng chữ ghi ân hận chút tình
Bao giấy thuốc thơm tình lính trận
Gửi cho người tấc dạ trung trinh

Mai lên nớ nhớ thân thể nóng
Em rướn người vào bóng trăng tan…..

Người lính không tên….

Trước khi anh đi, anh hỏi tôi có tấm hình nào không? Tôi mở tủ, tìm được một tấm hình mặc áo dài trắng có gắn huy hiệu bông mai của trường Gia Long, hình này tôi giữ kỹ vì để nhớ thời gian mình còn là một nữ sinh trong trắng chưa vướng bụi đời. Tôi đưa cho anh, anh bảo như vậy những khi nhớ tôi anh sẽ nhìn cho nhớ mặt tôi vì hình lúc 10 năm về trước và tôi bây giờ không khác nhau bao nhiêu, tôi ngồi thừ trước hình anh… nước mắt chan hoà..
Sáng hôm sau, anh dậy sớm trở về trại vì đã hết phép. Anh hôn tôi nồng nàn, từ giã Vân và tôi. Tôi nhìn theo anh…hình như tôi vừa mất một cái gì thật thương qúi…
Quán Vân và tôi bây giờ khách thật đông, ngoài trại lính bên cạnh, tấp nập khách thương di chuyển hàng, ngang thành phố, thêm gia đình vợ con lính cũng lên đây để thăm viếng chồng, anh, em trai cho tiện. Quán bây giờ không còn là ổ gái giang hồ mà là quán café và quán ăn. Vân cũng chán cái ghề mà thiên hạ vẫn gọi là nhơ nhớp và đê tiện. Vân trở về với đời sống bình thường, ngày ngày lo công việc rót rượu và các thức uống, mướn thêm người để tiếp khách, phần tôi vì tôi giỏi về nấu ăn nên Vân để trọng trách này cho tôi đảm đương.
Cuộc đời tôi không ngờ lại có sự thay đổi bất ngờ không tính trước, vì vài tháng sau, tôi đang thái rau cải, bỗng cơn buồn nôn thúc tôi chạy vào nhà sau ói, và tắt kinh: tôi mang thai với người lính không biết tên.
Tôi nửa mừng nửa lo, mừng là tôi sẽ lên chức mẹ, nhận ra tôi đã yêu thương anh ta vô cùng và tôi muốn giữ cái bào thai này như một kỷ niệm đẹp của đời mình, lo là không biết rồi đây cái thai lớn lên, rồi tôi sẽ làm gì và đi đâu. Tôi kể cho Vân nghe, tôi muốn bỏ quán đi về quê để sinh nở nhưng Vân cản lại, Vân bảo thứ nhất là tôi mang thai, không chồng lại mang tiếng đồ gái chửa hoang, thứ hai tôi lấy gì để sống và nuôi cháu bé.
Vân bảo tôi hãy ở lại với Vân, nó rất tốt với tôi, thương tôi như ruột thịt, ở lại đây, dù sao tôi vẫn sống qua ngày được, tôi mềm lòng, cảm ơn Vân và tiếp tục công việc của mình.
Đêm đêm trước khi ngủ, tôi vẫn lấy hình người lính không biết tên ra nhìn, nhớ anh ấy như nhớ người tình hay người chồng của mình.
Nhiều khi tôi nghĩ dại, lỡ anh chết ở chiến trường, chắc tôi khóc đến giọt nước mắt cuối cùng, và vui là biết bây giờ tôi còn thêm một kỷ niệm sống với anh sau mấy đêm thương yêu nhau thật như hai người tình.
Ngày tháng cứ theo nhau trôi qua, cuộc sống tạm ở quán Vân và tôi cũng đắp đỗi qua ngày. Bây giờ tôi đã sinh nở xong, cháu bé trai ra đời trong tình thương của tôi và Vân.Tôi đặt tên cho cháu là Việt Nam, gọi Vân là dì Vân giùm cho cháu bé. Mỗi lần tôi ngồi cho con bú, tôi nhớ anh ấy kinh khủng, không biết bây giờ tiểu đoàn của anh đã trôi nổi ở chiến trường nào.
Quán chúng tôi bây giờ rất đông đảo, tấp nập đủ hạng khách, nhất là lính. Nhưng lúc này tôi cảm nhận hình như có gì không yên ổn lắm; trên gương mặt của những đám lính đến uống nước ở quán, lúc này có vẻ lo âu, tôi nghe lóm ở họ những tiếng di chuyển, thuyên chuyển, nào những địa danh như Đồng Xoài, Bình Giả…Pleime.
Tiếng máy bay trực thăng rền trên đầu, ngoài đường cái những xe tăng, xe cứu thương, xe jeep, từng đoàn convoi chở đầy lính không biết đi đâu… và càng ngày càng nghe tiếng súng, tiếng đại bác, tiếng bom gần lại. Tôi đâm lo, tôi nói với Vân, Vân cũng nghĩ như tôi, thấy tương lại bấp bênh quá.
Trong toán lính còn đóng ở đơn vi cạnh quán, có một người mặt mày thật nhân hậu, dễ mến, xem ra hình như rất cảm nàng Vân và nàng ta cũng vậy, Vân đối với anh ta rất đặc biệt . Thấy anh mặc áo hoa rừng, trên tay trái có mang chữ V, tôi hỏi nhỏ một người lính bạn anh, anh ấy trả lời: ah, Hậu nó mang lon trung sĩ mà chữ nghĩa lính gọi là cánh gà đó chị.
Một trưa quán ít khách, tôi ngồi ru cháu bé ngủ ở nhà sau, để cho Vân và Hậu (anh ta tên là Nghĩa Hậu) nguyên buổi trưa. Lúc Hậu trở về đơn vị, Vân gọi tôi tâm tình.
Vân thố lộ với tôi là hai anh chị mết nhau lắm, và Hậu bảo muốn cùng Vân thành vợ chồng ngày Hậu mãn lính. Vân bằng lòng chờ đợi anh. Vân thú hết với Hậu về đời Vân, nhưng Hậu bảo Hậu không nề hà dĩ vãng của nàng, Hậu bảo Vân và tôi là hai sắc hoa trong thời loạn. Vân rất vui và cảm động tấm lòng độ lượng của Hậu, Vân nói nhưng làm sao anh giới thiệu Vân với gia đình của Hậu ở Đà Lạt lần tới khi anh được nghỉ phép vài ngày. Hậu trả lời không cần phải nói rõ Hậu gặp Vân ở đâu, hơn nữa, anh lớn rồi và anh là lính, cuộc đời nay sống mai chết nên anh muốn cho Vân hưởng hạnh phúc cùng anh cho dù vài tháng, vài ngày, vài giây…. Vân hứa sẽ lấy Hậu làm chồng và sau đó sẽ gửi quán lại cho tôi trông nom.

Tuần sau đó, Vân bảo tôi làVân sẽ về thăm người dì ruột ở Quảng Trị vài hôm rồi sẽ trở về với tôi trông coi quán và chờ Hậu về. Nhưng Vân sẽ không bao giờ về với mẹ con tôi nữa. Chuyến xe đò trong đó có Vân đã trúng mìn, tất cả xe đều chết hết.
Thế là tôi lại bơ vơ thêm lần nữa, mất người bạn thiết, lạc người lính không biết tên mà tôi đã đem lòng yêu thương, tôi khóc hết nước mắt. Hậu cũng đi rồi, không biết phải ra chiến trường nào! Nhiều lúc nghe tiếng súng và đại bác gầm trong đêm, tôi ước có viên đạn lạc nào đó lấy luôn sự sống của tôi cho rồi, nhưng khi tôi nghe tiếng khóc con thơ bên cạnh, tôi sực tỉnh cơn ác mộng. Tôi đã tự hứa với mình là tôi sẽ nuôi cháu cho thành người vì tôi vẫn có hy vọng có thể ngày nào đó mẹ con tôi sẽ gặp lại người xưa.
Tôi vẫn tiếp tục ngày ngày cho quán, nhưng rồi cũng bối rối quá vì hình như có cái gì đó không ổn. Ngoài đường bây giờ từng đoàn người tay nải, tay bế tay bồng chạy, mà chạy đi đâu, không hỏi ai được, rồi thêm vào đó xe chở lính đầy đường, máy bay trực thăng bay rền trời, tôi cũng đâm hoảng, lúc này không còn thấy lính đến uống nước nữa.

Cuối tháng Tư 75.
Đang hoang mang chưa biết phải làm gì thì ngay sáng hôm đó, Hậu không biết từ đâu chạy bay vào quán, réo tôi bảo thu xép vài thứ cần thiết cho cháu bé, bảo hai cô gái giúp quán cũng vậy, tôi đang còn tần ngần không biết đem gì bỏ gì thì Hậu hét to lên bỏ hết, bỏ hết, mau lên, xong Hậu bồng thằng Nam, một tay nắm tay tôi dắt ra cửa, hai cô gái một cô dùng dằng không chịu đi vì em ấy còn mẹ già và em trai nhỏ, bảo chúng tôi cứ đi, để quán lại em lo tiếp.
Hậu bồng Nam ra xe, trao cháu cho người lính ngồi trên xe, đẩy tôi và cô gái tên Uyên lên xe rồi nhảy phóc lên chỗ tay lái, cho xe chạy thẳng. Trên đường bây giờ thiên hạ như tổ ong vỡ, vừa chạy vừa gào vừa khóc, không còn biết chạy hướng nào nữa. Chiếc xe jeep Hậu phải lách tránh vừa người, vừa convoi lính, phải tay lái cừ lắm mới không đụng ai và cán ai. Có nhiều người muốn níu xe lại xin cho quá giang, nhưng Hậu không ngừng, thì giờ cẩn cấp quá rồi. Tôi như con ngáo, hỏi Hậu là thế nào, mới hay là miền Nam đã mất vào tay cộng sản, và chúng tôi đang tìm đường thoát.
Tội thằng Nam, chắc nó cũng cảm được gì đó không an, nó ngồi êm rơ trong lòng người lính. Xe chạy như vậy không biết đã bao lâu và hướng nào vì đi từ sáng sớm tinh mơ, giờ đã tối thui. Hậu bảo chúng tôi là sắp đến Vũng Tàu. Tôi và cô gái cũng không dám hỏi thêm.
Sau cùng, tôi nhận ra bãi biển Vũng Tàu với những hàng dừa như ngái ngủ bây giờ bị dựng đầu dậy bởi tiếng khóc, tiếng réo, tiếng cầu cứu loạn xà ngầu của đám người chạy loạn cũng đang tìm cách thoát ra khơi bằng đủ cách. Vì Hậu hình như đã tính toán sẵn trước nên khi vừa đến Bãi Trước, anh hối thúc mọi người theo anh chạy xuống mé biển, ở đấy đã có sẵn một chiếc tàu quân sự nhỏ đang chờ chúng tôi. Anh để người lính bạn nhảy lên tàu trước, đưa Nam cho anh ta, xong đến cô gái, đến tôi và Hậu cuối cùng, chiếc tàu nhổ neo chạy vọt ra khơi.
Chiếc tàu chúng tôi chạy ra xa, và tiếng máy hình như vừa ngừng lại, trước mắt là một chiếc tàu lớn của hải quân Mỹ vì có treo cờ Mỹ. Chiếc tàu dừng hẳn lại, trên tàu có mấy người lính Mỹ thả xuống một cái thang bằng dây. Hậu bảo người lính bạn leo lên, Hậu buộc cháu Nam trên lưng anh ta, xong Hậu đỡ tôi leo lên sau, rồi đến phiên cô gái và Hậu.
Thường ngày, leo thang bằng dây như vậy thật là khó khăn, nhưng hôm nay, sự lo lắng và sợ hãi đã làm cho tôi như mọc cánh, leo thật dễ dàng.
Lên đến tàu rồi, thấy Hậu lăng xăng nói chuyện với mất người lính Mỹ anh gặp. Trong lúc đó tôi nhìn quanh, chiếc tàu lớn này chở có lẽ đến 5, 6 ngàn người vừa lính Mỹ, vừa quân nhân Việt Nam Cộng Hoà, vừa đám người tị nạn như tôi, vợ con quân nhân…những người đầy may mắn chạy thoát đặc biệt như vầy.
Qua khỏi cơn kinh hoàng, bất chợt tôi vừa nhận ra mình sẽ rời xa mãi Việt Nam thân yêu, tôi quay lại nhìn về phía Vũng Tàu, xa lắm nên tôi không còn thấy và nghe tiếng đám người chạy loạn, chỉ thấy lửa; toàn lửa đỏ cả một góc trời và đám khói đen nghịt bốc cao, Vũng Tàu vừa bị đốt. Tôi thở dài, thế là quê hương thân yêu tôi đã bỏ lại sau lưng mình!
Tôi tìm anh lính để cám ơn anh đã lo cho Nam, tôi tìm Hậu để muốn nói một lời nào đó, và để hỏi Hậu về tin tức mình sẽ đi về đâu…Hậu thấy tôi đến gần, anh nhìn tôi, nở một nụ cười đón tôi nhưng thật buồn, rồi thôi, hai chúng tôi đứng bên nhau không nói thêm gì nữa. Tôi thấy mắt Hậu nhìn về phia tôi cũng vừa nhìn lúc nãy, đôi mắt anh chứa một nỗi buồn kín đáo, trầm lặng, tôi biết anh đang nghĩ đến quê hương vừa bỏ mất, đến Vân, tình yêu đầu đời của anh nay chỉ còn là một hoài niệm khó quên, hình ảnh của những mảnh thịt da tan tác đó đây, nhầy nhụa máu cùng đất đỏ cao nguyên của Vân, của những người lính đồng đội của anh đã nằm xuống, của những người dân chết vì một viên đạn, một mảnh bom vô tình rơi trúng trên một quãng đường nào đó của quốc lộ…
Trên chiếc Hàng Không Mẫu Hạm Hoa Kỳ chở dân tị nạn chúng tôi, bây giờ bớt người, vì đến đảo Subic Bay, có khu trục hạm khác đang đậu chờ để chia bớt số dân di tản chia làm hai ra, dân trên tàu chúng tôi thấy tàu kia tản bớt còn ít người nên ùn ùn xuống bớt tàu nầy qua bên tàu kia. Không biết là chiến hạm này sẽ đi Canada hay Úc thì tôi không rõ lắm.
Thấy bớt được người, Hậu bảo anh bạn lính, Uyên và tôi cứ ở lại đây vì Hậu bảo tàu này chắc sẽ qua thẳng đảo Guam.
Tôi mở ngoặc nói về người Mỹ một chút, những ngày trên tàu, hầu hết lính Mỹ đối với đám dân tị nạn chúng tôi rất tốt, chúng tôi mỗi ngày vẫn nhận được 3 bữa ăn có cơm chỉ khổ là họ không biết biết nấu kiểu Việt Nam, nhiều nước quá nên cơm nhão, nhưng dù sao khi đói ăn gì vẫn thấy ngon, đồ ăn toàn là đồ hộp như thịt hộp…các cháu bé thì được phát thêm sữa bột Mỹ…Tôi cám ơn những người Mỹ đã đón nhận chúng tôi với nỗi thông cảm sâu sắc tình người.
Vì bớt người nên chúng tôi không còn nằm như cá mòi sắp lớp nữa, Hậu tìm được cho bọn con gái chúng tôi một chỗ trên boong, thoải mái. Những người lính Mỹ đem cho chúng tôi mỗi người một tấm nệm bằng cao su, một tấm mền vừa ấm cũng vừa êm nên cũng đỡ khổ cho tấm lưng gầy, mấy hôm nay bị cong vì nằm hụt chỗ.
Đêm nay, đêm bình yên đầu tiên tôi nhìn thấy trăng, bao ngày lênh đênh trên biển, sự lo âu và đau buồn vì chuyện phải rời bỏ quê hương đang bị dày xéo bởi chế độ khắc nghiệt độc tài sau chiến tranh. Nhớ cái chết thảm thương tội nghiệp của Vân, tôi như người ngồi trên lửa và mắt tôi như mù đi. Đêm nay ngồi ôm cho bé Nam ngủ, tôi ngồi cạnh Hậu, Sang – anh lính chưa quen- và Uyên, tôi chợt thấy trên nền trời đêm xanh trong, có mặt trăng và những ngôi sao lấp lánh, chợt tôi nhớ đến 4 câu thơ của người lính không biết tên đọc cho tôi nghe lúc anh nằm cạnh, anh vuốt tóc tôi âu yếm:
Giữa khuya tay gối đợi chờ
Em đi vào giấc mơ đời lênh đênh
Trăng vào xiêm áo nhẹ tênh
Oằn thân ngà ngọc cong vênh cội nguồn….

Mắt tôi chợt ướt, tôi lắc đầu cho quên đi kỷ niệm, vì giờ này đâu còn là lúc để nhớ mà chỉ lo ngay ngáy ngày mai mình và con sẽ ra sao và tương lai sẽ đi về đâu…
Lênh đênh trên biển như vậy, sau 11 ngày, thì chiến hạm đến hải phận của đảo Guam. Trước khi cho chúng tôi sang những chiếc tàu nhỏ của tuần dương hạm để vào đảo, họ phát cho chúng tôi ít quần áo, các người đàn ông mỗi người một chiếc sơ mi chim cò kiểu người Phi Luật Tân.
Bỗng tôi nghe có tiếng thét từ trên boong cao, tôi đưa cháu Nam cho Uyên, đưa mắt tìm Hậu nhưng không thấy, tôi chạy vội leo lên boong, thấy Hậu và một nhóm người đang nhìn xuống biển, tôi vội vàng chạy đến tìm Hậu, đưa mắt hỏi. Chỉ nghe Hậu thở dài và đám người kia phần nhiều là quân nhân VNCH, mặt họ thật buồn.
Hậu kể cho tôi nghe câu chuyện từ đâu có tiếng thét nhói tim người nghe lúc nãy: Lúc mọi người được phát cho quần áo, chiếc áo sơ mi chim cò kiểu Phi Luật Tân vẫn mặc. Như mọi người quân nhân khác, Hậu cầm chiếc áo trong tay, tần ngần không biết nên cởi bộ quân phục đang bận trên người để thay, chợt Hậu thấy đằng xa một anh quân nhân cầm trên tay chiếc áo, vẻ mặt như đang nghĩ ngợi một điều gì quan trọng, có lẽ anh ta đang đối diện với một sự thật tàn nhẫn không thể chối bỏ hay quên được: Đó là danh dự tổ quốc, lý tưởng của người làm trai đã hy sinh cả cuộc đời, tuổi trẻ, gia đình để bảo vệ miền đất tự do của anh đã mất hết. Trong một khắc ngắn, như đã quyết định, anh leo lên bờ boong tàu, lao mình xuống biển, sóng đã nuốt chửng mất hút thân anh trong biển mênh mông trong lúc Hậu chưa kịp làm một cử chỉ gì để giữ anh lại! Vậy là bao nhiêu chí lớn trong một khắc ngắn đã chìm theo những bọt sóng vô tình….Hậu nắm tay tôi, ngậm ngùi cho hoàn cảnh của những người cầm súng không giữ được quê hương! Hậu nghĩ trong đầu, khi cầm chiếc áo chim cò anh vừa nhận được, anh cảm thấy lòng anh rất thẹn, thẹn vì anh thấy mình thật bất lực, anh là một quân nhân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, trong tay anh cầm súng cùng với anh em chiến hữu cố chiến đấu đến phút cuối cùng, vậy mà không làm tròn được sứ mạng của người trai lúc quê hương đang gặp nguy biến, không ngăn chận được kẽ thù, anh cũng đã nghĩ đến chỉ có cái chết mới có thể xin tạ lỗi cùng quê hương, nên anh rất hiểu tâm trạng người quân nhân vừa đã nhảy xuống biển tự vẫn vừa rồi.
Tôi nhìn Hậu, thấy sự xót xa trong mắt Hậu, tôi vội bấu chặt lấy cánh tay Hậu:
-Hậu, Hậu đừng làm vậy, đã không có ích gì mà còn làm cho Vân dưới suối vàng buồn thêm, và còn những người còn sống, đồng bạn Hậu, mẹ con chị còn cần đến Hậu.
Vào đến đảo, chúng tôi cũng được đón tiếp đàng hoàng. Mỗi gia đình được chia cho một căn lều vải. Chúng tôi là những người gần như đầu tiên đến đảo, được đối đãi rất tốt. Mỗi ngày nhận được 3 khẩu phần. Cuộc sống trên đảo cũng tạm qua ngày trong lúc chờ đợi Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc quyết định cho tương lai của những người di tản.
Trên đảo có một văn phòng đại diện Liên Hiệp Quốc, họ cần những người biết tiếng Pháp, tiếng Anh để làm thông dịch viên. Hậu và tôi tình nguyện vào làm vì chúng tôi nói thạo 3 thứ tiếng.
Sau đó thấy Hậu độc thân, họ hỏi anh muốn đi đâu và có thân nhân ở đâu, Hậu bảo anh đã liên lạc được với vợ chồng em gái anh ở Mỹ và chịu bảo trợ cho anh, và anh đã được đồng ý cho đi Hoa Kỳ. Sau đó đến tôi, thấy tôi thạo tiếng Anh, và có con nhỏ, họ bảo tôi được quyền ưu tiên chọn xứ, và sau đó do sự bảo trợ của nhà thờ, họ tìm được cho tôi một gia đình hai vợ chồng người Mỹ cao tuổi đang cần một người giúp việc nhà, họ liên lạc với gia đình này và tôi được nhận.
Cuộc đời mẹ con tôi đến một ngã rẽ may mắn, nhiều khi nghĩ lại, tôi cũng tự hỏi có phải tôi đẻ bọc điều không, hay định mệnh do Trời Phật xếp đặt.
Ông bà Mỹ đối với mẹ con tôi như người nhà. Ngoài những giờ làm việc, bà chủ cho tôi theo học lớp tiếng Anh cho người ngoại quốc, vì dù tôi thạo tiếng Anh, nhưng ở Mỹ họ nói mau quá khó nghe vì nuốt chữ. Và vì chợ búa, món ăn tôi chưa thạo việc lắm, chỉ có cái vui là ông bà rất thích đồ ăn Việt nên mê những món tôi nấu.
Ở đây có nhiều hội từ thiện các nhà thờ, thường cho mẹ con tôi quần áo …có mặc rồi nhưng chưa cũ lắm, cháu Nam thì ban ngày được đi mẫu giáo, tóm lại, cuộc đời tôi không đến nỗi nổi trôi lắm nếu hai ông bà Mỹ không mất đi. Từ đó, tôi lại phải lo tìm việc khác để làm nuôi con.
Tôi nhờ nhà thờ tìm cho tôi chỗ làm, và tôi được nhận vào nấu ăn cho một nhà hàng Việt, với sự dành giụm, mấy năm sau tôi mua được một căn nhà nhỏ đủ cho mẹ con tôi ở. Tôi tiếp tục như vậy và nuôi con cho đến lúc nó ra đại học. Bây Giờ Nam đã là một luật sư. Nó tìm được chỗ làm tốt cùng với một luật sư người Mỹ gốc Việt.
Hiên nay tôi đã ngoài lục tuần. Tôi vẫn sống độc thân nuôi con, dù có rất nhiều người thương và xin cưới tôi. Trong tim tôi, bao giờ cũng chỉ có một hình bóng duy nhất của người lính không biết tên mà tôi vẫn xem anh như chồng mình. Tôi cứ cầu nguyện Trời Phật cho tôi gặp lại anh ấy dù chỉ một lần là đủ mãn nguyện rồi. Nam từ nhỏ vẫn hỏi cha nó đâu, tôi giải thích cho con cha nó là một người lính trước đây của binh chủng Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà.
40 năm sau
…….
Buổi tối hôm đó, tôi đi dự đám cưới con của bạn, tôi không thể nào ngờ là mình đã gặp lại người xưa. Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.
Trong một bữa tiệc cưới con trai bạn, tôi đi dự hôm đó,mặc chiếc áo dài tím như thời còn là học trò nhưng hở cổ, thân người vẫn mỏng mảnh, và nhìn chung sắc diện cũng còn dễ coi, chưa bị thời gian hằn những nếp nhăn mặc dù đời tôi quá ê chề lúc trẻ. Trên cổ trắng ngần của mình, sợi dây chuyền người lính không biết tên đã tặng vẫn nằm yên cùng chỗ khi người ấy đeo vào cho tôi. Tôi đang đứng nói chuyện với mẹ cô dâu, chợt thấy có một người đàn ông tóc hơi hoa râm nhìn tôi chăm chú, tôi cố nghĩ tìm xem có quen không, thì người ấy đã đi về phía tôi, nhìn đăm đăm vào khoảng cổ trần của tôi:
– Xin lỗi bà về tội tôi đường đột sắp hỏi môt câu, nếu có gì thấy thất lễ, mong bà lượng thứ cho. Chưa kịp trả lời bằng lòng hay không, ông ta tiếp theo:
– Xin lỗi bà, làm sao bà có sợi dây chuyền này? Bất giác tôi nhìn tay ông ta đang cầm cốc rượu, một chiếc nhẫn bạc quen thuộc trên ngón tay út, cả hai người, ông ta và tôi đánh rơi hai cốc rượu xuống đất cùng một lần theo sau hai tiếng như thoát ra từ ngực mỗi người:
– Anh
– Em…
Anh đưa tôi về nhà, tôi mời anh hôm sau đến chơi và để cho anh biết một chuyện mà anh không bao giờ ngờ đến.
Hôm ấy tôi làm một bữa cơm thật giản dị nhưng để hết thương yêu vào những món mà ngày anh đến quán Vân tôi đã tự tay nấu cho anh và nhân thể tôi gọi Nam đến ăn cơm nhưng chưa cho con biết vì sao tôi căn dặn con là phải đến. Hôm nay tôi cũng sửa soạn làm đẹp một chút và nhìn gương, tôi rất tự hào mình vẫn còn những nét xưa.
Nghe chuông cửa reo, tôi vội vàng ra mở cửa, thấy anh ôm trên tay một bó hồng đỏ và chào tôi bằng một nụ cười thật tươi, tôi sững hết một phút, ban ngày nhìn rõ, nụ cười đó của anh vẫn dành cho tôi những ngày ngắn ngủi thương yêu nhau ngày xưa. Anh đưa cho tôi bó hồng, anh bảo có 40 đoá hoa, tôi hỏi tại sao lại 40 đoá hoa?
– Vì đã 40 năm anh chưa gặp lại em. Và mỗi một đoá hồng là một năm tròn anh nhớ em đó, em.
Nước mắt tôi ứa ra vì cảm động. Tối qua ở tiệc cưới, anh bảo anh vẫn ở một mình đến bây giờ vì cũng thầm mong ngày nào đó gặp lại tôi.
Tôi mời anh vào nhà, mời anh vào salon, mời anh ngồi ở chiếc ghế bành một chỗ bên tay trái tôi, tôi mở chai champagne, rót vào hai cốc, mời anh uống rượu khai vị. Anh nắm tay bảo tôi ngồi xuống cạnh anh, anh ôm tôi hôn nồng nàn như đêm đầu tiên mới gặp.
Qua hết những phút cảm xúc, tôi đứng dậy, đi lại bàn viết, mở hộc tủ lâu nay tôi vẫn khoá, tôi lấy bao thuốc lá Capstan cũ đưa cho anh, anh ngạc nhiên nhìn tôi, tôi ra dấu cho anh mở đi.
Anh cầm bao thuốc, mở ra, anh như sững lại: trong bao thuốc anh để lại trên bàn khi anh trở về đơn vị còn y nguyên số tiền lương tháng cuối cùng anh để lại cho tôi, tấm ảnh cũ của anh và bài thơ anh viết vội tặng tôi trước khi anh lên đường. Anh lặng người đi mấy phút, xong anh kéo tôi lại, dang tay ôm trọn tôi trong vòng tay anh.
– Sao em lại để dành số tiền này vậy?
– Vì đó thuộc về những kỷ niệm ít oi anh để lại cho em trước khi anh đi.
– Anh bảo em nếu em cần thì tiêu, không thì ngày gặp lại, em trả lại anh cũng được
– ???
– Vì em không phải cần đến số tiền đó nên…
Ngay lúc ấy, cửa nhà mở, cháu Nam bước vào, thấy anh, nó khựng lại một giây, xong bước lại gần, đứng cụp hai chân với nhau và đưa tay phải lên trán chào anh theo kiểu nhà binh.Thấy anh bỡ ngỡ, Nam lên tiếng trước:
– Con chào Ba, rồi đến gần hôn anh trên má.
Anh ngạc nhiên nhìn Nam rồi nhìn tôi, tôi chưa kịp lên tiếng thì Nam đã giành nói:
– Thưa, con biết là Ba, vì khi con vừa bước vào phòng khách, thấy Ba ngồi trên chiếc ghế mà Mẹ con không mời ai ngồi trên ấy, kể cả bạn bè của Mẹ hay ngay cả chú Hậu, vì Mẹ con vẫn nói với con là người đàn ông nào bước vào nhà và được Mẹ con mời ngồi vào chiếc ghế này sẽ là cha của con mà thôi, vì vậy mà con biết là Ba.
Anh nhìn tôi, tôi hiểu ra, tôi nói:
– Mấy tháng sau khi anh đi, em đã có thai, và đây là con trai chúng mình đấy anh, con tên là Nam, Nguyễn Việt Nam, em khai họ mẹ vì không biết anh tên gì và họ gì, anh cười thật tươi:
– Anh là Cường, Nguyễn Việt Cường.
– Còn em là Trầm Hương, anh trả lời hộ tôi, vì phía trong chiếc nhẫn em tặng anh đêm đó, anh đọc thấy tên em khắc trong nhẫn: Tôn Nữ Trầm Hương, rồi ôm tôi âu yếm…Hạnh Phúc thật bất ngờ còn đến với những ngưởi bạc hạnh như tôi.
Đông Hương
Cám ơn người đã viết tặng tôi bài thơ Gửi Em Chút Quà cho chuyện ngắn này.

vendredi 17 juin 2016

MỘT LỜI TRI ÂN




Trong cuộc đời đầy ưu phiền nhiều buồn hơn vui, thơ Cao Nguyên đã như một ánh sáng của một ngọn đèn tiên dọi đến, như một chiếc đũa thần đã biến một bông hoa tỉ muội mọc ven đường thành một đoá hồng đầy hương sắc, thơ anh đã cho tôi cảm hứng để viết những mẫu chuyện tình nho nhỏ giữa bông hoa và nhà thi sĩ
Cám ơn nhà thi sĩ CN với những dòng thơ tình quá tuyệt vời

đht